Chủ Nhật, 28 tháng 12, 2014

Các trường hợp cấp Thẻ tạm trú cho người nước ngoài

Thẻ tạm trú
Dịch vụ cấp thẻ tạm trú cho người nước ngoài
 Dịch vụ cấp mới thẻ tạm trú cho người nước ngoài (First issue of temporary residence card) nằm trong dịch vụ thẻ tạm trú  dành cho đối tượng là người nước ngoài lưu trú tại Việt Nam xin cấp thẻ tạm trú lần đầu. Đối tượng này thường rơi vào là chủ đầu tư, người  nước ngoài có giấy phép lao động đang làm việc tại các loại hình doanh nghiệp, VPĐD các công ty nước ngoài. Đến nay Hùng Sơn đã thực hiện thành công dịch vụ thẻ tạm trú cho nhiều công ty nước ngoài, hay công ty có yếu tố nước ngoài.

Thẻ tạm trú cho người nước ngoài

Thẻ tạm trú là loại thẻ cư trú được cấp cho người nước ngoài tại Việt Nam đáp ứng các điều kiện theo quy định của pháp luật và có thời hạn thấp nhất là 1 năm và tối đa là 3 năm. Người nước ngoài mang thẻ tạm trú được miễn thị thực khi xuất cảnh, nhập cảnh trong thời hạn của thẻ tạm trú. Thẻ tạm trú được cấp cho nhiều đối tượng người nước ngoài sống phổ biến nhất là cấp cho người lao động nước ngoài tại Việt Nam.

I. Đối tượng người lao động nước ngoài được cấp thẻ tạm trú:

  • Người lao động nước ngoài đã được cấp Giấy phép lao động có thời hạn từ 1 năm trở lên.
  • Người lao động nước ngoài không thuộc diện phải cấp Giấy phép lao động, bao gồm:
    • Là thành viên góp vốn hoặc là chủ sở hữu của công ty trách nhiệm hữu hạn.

Thứ Hai, 22 tháng 12, 2014

Dịch vụ cấp giấy phép lao động

Giấy phép lao động
     Từ ngày 01/11/2013 thủ tục và hồ sơ xin cấp và gia hạn  giấy phép lao động cho người nước ngoài được thực hiện theo quy định mới của Nghị định 102/2013/NĐ-CP.
Đê tạo thuận lợi cho doanh nghiệp và người nước ngoài xin cấp giấy phép lao động Công ty tư vấn Asimic xin hướng dẫn thủ tục và chuẩn bị hồ sơ glàm iấy phép lao động cho người nước ngoài như sau:

I. Cơ sở pháp lý
Nghị định 102/2013/NĐ- CP Quy định chi tiết thi hành một số điều của Bộ luật Lao động về lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam có hiệu lực từ ngày 01/11/2013
Bộ luật lao động số 10/2012/QH13 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 18 tháng 6 năm 2012 và có hiệu lực kể từ ngày 1/5/2013

Chủ Nhật, 21 tháng 12, 2014

Tư vấn đầu tư nước ngoài



Tư vấn đầu tư nước ngoài
Dịch vụ tư vấn đầu tư nước ngoài 
  Với sự hiểu biết toàn diện và đầy đủ về pháp luật cũng như môi trường kinh doanh, đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, Công ty Luật Hùng Sơn có thể cung cấp cho khách hàng các ý kiến tư vấn pháp lý hữu ích nhất trong mọi lĩnh vực đầu tư nước ngoài.

Thứ Năm, 18 tháng 12, 2014

Công ty liên doanh - Tư vấn thành lập công ty liên doanh


Công ty liên doanh
Công ty liên doanh
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, nền kinh tế Việt Nam ngày càng hội nhập sâu với các nước trong khu vực và quốc tế. Đầu tư FDI vào Việt Nam không ngừng tăng, một trong những hình thức đầu tư quan trọng vào Việt Nam là hình thành các công ty liên doanh (công ty có vốn nước ngoài tại Việt Nam). Công ty luật Hùng Sơn là một trong những doanh nghiệp cung cấp dịch vụ pháp lý trong việc tư vấn thành lập loại hình doanh nghiệp này. 

Đăng ký bản quyền phần mềm

Đăng ký bản quyền phần mềm
Dịch vụ Đăng ký bản quyền phần mềm
 Đăng ký bản quyền phần mềm của công ty Luật Hùng Sơn & Cộng sự là tổ chức dịch vụ được Cục bản quyền tác giả cấp giấy phép hoạt động trong lĩnh vực tư vấn và đại diện cho khách hàng trong lĩnh vực bản quyền nói chung và Đăng ký bản quyền phần mềm nói riêng.

Hóa đơn hôn nhân


Luật sư ly hôn
   Trong một đêm mưa gió của 10 năm về trước, sau khi anh thi rớt Đại học, ngoài người mẹ đang bệnh tật, người cha già ốm yếu, còn cả ngôi nhà mái ngói mưa ngập vì dột nước, tất cả anh đều bỏ lại cho em để lên Hà Nội tìm việc. Em đã quyết định rời xa quê hương, xa gia đình bạn bè, từ bỏ tất cả để đi theo anh. Còn nhớ lúc đầu lên Hà Nội, lộ phí đều dùng tiền lương cả năm đi dạy thêm của em. Em chịu bao nhiêu vất vả, khổ cực như vậy cũng chỉ vì ngày hôm nay có thể được sống hạnh phúc bên anh.

Thứ Ba, 2 tháng 12, 2014

DÙNG CẢ TRÁI TIM ĐỂ PHÁN XÉT

Trong phòng xử án, chủ tọa trầm ngâm suy nghĩ trước những cáo buộc của các công tố viên đối với một cụ bà vì tội ăn cắp tài sản. Bà bị buộc phải bồi thường 1 triệu Rupiah.

Lời bào chữa của bà lý do ăn cắp vì gia đình bà rất nghèo, đứa con trai bị bệnh, đứa cháu thì suy dinh dưỡng vì đói.

Nhưng ông chủ quản lý khu vườn trồng sắn nói bà ta cần phải bị xử tội nghiêm minh như những người khác.

Thẩm phán thở dài và nói:

- Xin lỗi, thưa bà...- Ông ngưng giây lát, nhìn ngắm bà cụ đói khổ - nhưng pháp luật là pháp luật, tôi là người đại diện của Pháp luật nên phải xử nghiêm minh. Nay tôi tuyên phạt bà bồi thường 1 triệu Rupiah cho chủ vườn sắn. Nếu bà không có tiền bồi thường, bà buộc phải ngồi tù 2 năm rưỡi.

Bà cụ run run, rướm nước mắt, bà đi tù rồi thì con cháu ở nhà ai chăm lo. Thế rồi ông thẩm phán lại nói tiếp:

- Nhưng tôi cũng là người đại diện của công lý. Tôi tuyên bố phạt tất cả những công dân nào có mặt trong phiên toàn này 50.000 Rupiah vì sống trong một thành phố văn minh, giàu có này mà lại để cho một cụ bà ăn cắp vì cháu mình bị đói và bệnh tật.

Nói xong , ông cởi mũ của mình ra và đưa cho cô thư ký :

- Cô hãy đưa mũ này truyền đi khắp phòng và tiền thu được hãy đưa cho bị cáo.

Cuối cùng, bà cụ đã nhận được 3,5 triệu Rupiah tiền quyên góp, trong đó có cả 50.000 Rupiah từ các công tố viên buộc tội bà, một số nhà hảo tâm khác còn trả giúp 1 triệu Rupiah tiền bồi thường, bà lão run run vì vui sướng. Thẩm phán gõ búa kết thúc phiên tòa trong hạnh phúc của tất cả mọi người.

Đây là một phiên tòa xử nghiêm minh và cảm động nhất mà tôi được biết, vì tất cả chúng ta đều phải chịu trách nhiệm với cuộc sống xung quanh chúng ta, vị thẩm phán đã không chỉ dùng luật pháp mà còn dùng cả trái tim để phán xét.

Vợ bỏ, kiện chuông


Luật sư ly hôn
 Sau một thời gian ly hôn với vợ, ông John Devaney (bang Rhode Island, Mỹ) đã đệ đơn kiện nhà thờ Thánh Thomas ở đối diện nhà ông với tội đổ chuông 3 lần/ngày. Người đàn ông này cáo buộc, tiếng chuông được nhà thờ khuếch đại âm thanh khiến nhiều khi hai vợ chồng ông phải nút lỗ tai. Ông tin chắc, chính điều này đã gây đổ vỡ hạnh phúc, dẫn tới việc chia tay với người tình lâu năm của mình. Trong một tuyên bố, nhà thờ khẳng định việc đổ chuông trong một khoảng ngắn là “hợp lý và nằm trong quyền cho phép”.

Tình yêu Nhím & Cá

Có một chàng Nhím đã trót yêu thương một nàng Cá. Nhím khao khát một lần được ôm Cá vào lòng để được nghe hơi ấm từ trái tim nàng tỏa ra. Nhưng Nhím biết, chàng chẳng bao giờ có thể làm được điều đó. Nhím sợ những chiếc gai trên người mình sẽ khiến Cá đau.
Nhím nghĩ ra một cách. Nhím bứt dần những chiếc gai trên người mình. Những vết thương đẫm máu, những vết thương đau thấu tận tim gan Nhím và cả tận tim gan người yêu chàng. Nhưng Cá không có cách nào ngăn cản nổi ý định ngông cuồng của người yêu. Cá nài nỉ, van lơn nhưng Nhím vẫn không từ bỏ. Và đến một ngày, Cá quay lưng bỏ đi.
- Thượng Đế ơi, tại sao cô ấy lại bỏ con đi?
- Con đã bao giờ nhìn thấy Nhím và Cá yêu nhau chưa?
- Nhưng, con yêu cô ấy thật lòng. Con nguyện chịu đựng đau để được bên cô ấy.
- Những vết thương của con, con có nghĩ cô ấy còn đau hơn gấp trăm ngàn lần không?
- Cá có nước mắt không hả Thượng Đế?
- Có chứ. Nước mắt của cá hòa vào trong nước. Vậy là, con đã tự làm tổn thương mình, tự làm tổn thương người mình yêu và.. cô ấy phải ra đi để giải thoát cho con và cả chính cô ấy. Tình yêu đôi khi chỉ đơn giản là học cách từ bỏ mà thôi, con à...

Không bao giờ nói “Không bao giờ”

Tôi không nhớ lúc nào trong đời, mình bắt đầu không muốn cái gì khác hơn là trở thành một cô giáo. Khi còn là một đứa trẻ, tôi chơi trò dạy học với các anh chị em họ và bạn bè như thể một cách thực tập cho nghề nghiệp tương lai của mình. Nhưng cái mà một đứa trẻ là tôi lúc đó không thể nhận thấy, là giấc mơ của mình đắt giá biết nhường nào. Tôi xuất thân từ một gia đình trung bình, và dường như chúng tôi luôn luôn phải vật lộn để có đủ cái ăn. Giấc mơ của tôi được vào học trường đại học Connecticut dường như vượt khỏi tầm với nhưng tôi vẫn không muốn một thứ gì thấp hơn thế.
Vào năm học cuối cùng của trung học, tôi bắt đầu nộp đơn vào các trường đại học. Trong tim tôi đã quyết định sẵn rồi: trường đại học Connecticut là trường duy nhất. Nhưng một trở ngại lớn như hòn đá chặn giữa tôi và giấc mơ của tôi, đó là học phí.
Nghĩ tới điều đó, thoạt tiên, tôi suýt bỏ cuộc. Tôi nghĩ, ai mà tài trợ cho mình – một cô nữ sinh trung bình – một món tiền như vậy cơ chứ? Tôi không phải là học sinh giỏi nhất lớp, gần giỏi nhất cũng không phải, nhưng tôi biết trái tim mình đặt đúng chỗ, và thế là tôi kiên định với lựa chọn của mình. Tôi biết học bổng sẽ chỉ dành cho những học sinh thật thông minh, hay tương tự như vậy. Nhưng tôi vẫn nộp đơn cho tất cả các loại học bổng mà tôi biết. Tôi có gì để mất nào? Và khi người tư vấn của tôi nói với tôi rằng có một hệ thống chuyên hỗ trợ tài chính cho người muốn vào đại học, tôi bèn nộp đơn. Nộp, nhưng tôi hoàn toàn không nghĩ là mình có đủ tiêu chuẩn để được giúp đỡ.
Sau kì nghỉ, các bạn của tôi bắt đầu nhận những thư báo nhập học của các trường đại học, và tôi cũng nôn nóng chờ nhận cái thư của mình. Cuối cùng, một lá thư đến từ trường đại học Connecticut. Cảm giác sợ hãi và vui sướng tràn ngập, nhưng tôi đã sẵn sàng. Tôi mở phong bì với tay run run và nước mắt tràn mi. Trời đất! Tôi đã được nhận vào trường học! Tôi khóc mất một lúc, vừa hào hứng vừa sợ hãi. Tôi đã làm cật lực để được trường chấp nhận. Nhưng tôi nghĩ tới học phí, có lẽ nào tôi lại sẽ không được đến trường chỉ vì không có đủ tiền đóng.
Tôi bắt đầu làm một công việc toàn thời gian, nhưng cũng không đủ trả tiền học. Món tiền đó quá lớn. Tôi là đứa con đầu tiên trong gia đình có thể vào đại học, và tôi biết bố mẹ tự hào biết bao, nhưng họ không thể lo nổi học phí cho tôi. Tuy nhiên, bố mẹ tôi là những người tuyệt vời, và họ dạy tôi không bao giờ được từ bỏ ước mơ của mình, bất chấp những trở ngại trên đường đi, và nhất là không bao giờ được để “mất dấu” những gì mình thật sự muốn trong đời. Bố mẹ tôi nói đúng, và tôi tiếp tục tin tưởng vào chính mình và giấc mơ của mình.
Nhiều tháng trôi qua và vẫn không có tin tức gì từ văn phòng hỗ trợ tài chính. Tôi đoán rằng tôi không đủ điều kiện, nhưng vẫn chưa hết hy vọng. Cuối cùng, một lá thư đến. Tôi nôn nóng mở ra, nhưng đó chỉ là báo động giả. Lá thư yêu cầu tôi cung cấp thêm một số thông tin nhằm tiến hành xét đơn của tôi.
Việc này diễn đi diễn lại nhiều lần, và hy vọng của tôi ngày càng teo lại. Cuối cùng, một phong bì to tướng gửi tới. Tôi biết đây chính là cái phong bì sẽ quyết định tôi có được đi học hay không. Tôi mở phong bì ra nhưng không thể hiểu nổi nội dung của những tài liệu trong phong bì đó.
Ngày hôm sau, tôi mang ngay những tài liệu đó đến trường và đề nghị người tư vấn của tôi coi giùm chúng nói gì. Ông nhìn tôi với một nụ cười rạng rỡ, và nói với tôi rằng quỹ hỗ trợ tài chính không chỉ tài trợ tiền học của tôi, mà tôi còn đạt thêm hai học bổng nữa mà tôi đã nộp đơn. Thoạt tiên, tôi bị sốc, rồi tôi òa khóc….
Giờ đây tôi là sinh viên của trường đại học Connecticut, khoa ngôn ngữ. Trong năm tới – năm đầu tiên của thiên niên kỉ mới, giấc mơ của tôi sẽ thành sự thực: tôi sẽ trở thành cô giáo.
Tôi sống theo câu châm ngôn này:
“Hãy với tới bầu trời, vì nếu không chạm tới được thì bạn cũng đã ở giữa những vì tinh tú.”

Hai đôla và một giờ

Một người cha đi làm về rất muộn, mệt mỏi và bực bội sau một ngày bận rộn ở cơ quan. Ông vừa về đến nhà, đứa con trai năm tuổi đã ngồi chờ từ lúc nào và hỏi:
-       Bố ơi, con hỏi bố một câu được không?
-       Được chứ, con hỏi gì?
-       Ông bố đáp.
-       Bố ơi, bố làm được bao nhiêu tiền một tiếng đồng hồ?
-       Đó không phải là việc của con. Mà tại sao con lại hỏi một việc như thế hả?
-       Ông bố hết kiên nhẫn.
-       Con muốn biết mà. Đứa con nài nỉ.
Nếu con cứ khăng khăng đòi biết, thì bố sẽ nói. Bố làm được hai đôla một giờ đồng hồ.
Ôi – đứa bé rụt rè hỏi – bố cho con vay một đôla được không?
Ông bố rất bực mình:
Nếu lý do duy nhất con muốn biết bố làm được bao nhiêu tiền chỉ là để vay mà mua mấy thứ đồ chơi vớ vẩn, thế thì mời con đi ngay vào phòng mình và ngủ đi. Hãy nghĩ xem tại sao con lại ích kỷ đến thế! Bố làm việc vất vả cả ngày và không có thời gian cho những chuyện ấy đâu!
Đứa bé đi vào phòng đóng cửa. Ông bố ngồi xuống càng nghĩ càng cáu. Tại sao đứa con lại dám hỏi mình một câu như thế chứ?
Một giờ sau, khi đã bình tĩnh lại, ông bố nghĩ có thể đứa con rất cần tiền để mua một thứ gì đó và nghĩ rằng mình đã quá nghiêm khắc với nó. Ông đi vào phòng con:
-       Con ngủ chưa?
-       Chưa ạ, con còn thức! – cậu bé nằm trên giường đáp.
-       Bố suy nghĩ rồi, có thể bố đã quá nghiêm khắc. Đây là một đôla cho con.
Cậu bé cầm lấy rồi thò tay xuống dưới gối, lôi ra thêm mấy tờ tiền lẻ nữa.
Ông bố thấy con có tiền từ trước lại cáu. Khi đứa con xếp thành một xếp tiền ngay ngắn, ông bố càu nhàu:
-       Tại sao con lại vay thêm tiền khi con đã có rồi?
-       Vì con chưa có đủ ạ! – Bỗng đứa trẻ ngẩng lên vui sướng – Bây giờ thì con có đủ rồi! Bố ơi, đây là hai đô la, con có thể mua một giờ trong thời gian của bố không?

Không có tính yêu nào Vĩnh Cửu nhưng có hạnh phúc Vĩnh Hằng

Bạn à, thật ra hạnh phúc đến từ những điều giản dị và nhỏ nhặt nhất như bạn có nhà để về, có bạn thân để tâm sự, không phải lo cái đói và đặc biệt có một người thật tâm yêu bạn, hiểu bạn, luôn ở bên bạn dù có chuyện gì, mà cái mỗi người con gái chúng ta muốn là vậy hay sao, chỉ cần một người như vậy là quá đủ rồi.

Người ta vẫn thường nói:" Trên đời này có rất nhiều thứ vĩnh cửu nhưng tuyệt nhiên tình yêu không phải là một trong số đó".Tôi tin có thể không có tình yêu vĩnh cửu nhưng sẽ có hạnh phúc vĩnh hằng.

Bạn ạ, tình yêu là thật, nhưng tình yêu vĩnh cửu chỉ là một ảo mộng mà thôi. Yêu chỉ là trong một khoảnh khắc nào đó mà thôi. Nên hãy cứ tin vào tình yêu nhưng tuyệt đối đừng tin vào sự mãi mãi, vĩnh cửu của nó.

Có lẽ bạn sẽ hỏi tôi:" Nếu 2 con người không có tình yêu với nhau thì làm sao sống được với nhau đến trọn đời?". Tôi sẽ trả lời bạn rằng:" Cái gắn kết con người lại với nhau, cái mà làm cho con người có thể nắm tay nhau đến đầu bạc răng long, cái đó có tên là ‘hạnh phúc’."

Có lẽ bạn sẽ tiếp tục lại hỏi tôi:" Không phải tình yêu đi đôi với hạnh phúc hay sao? Vậy nếu không có tình yêu vĩnh cửu thì làm gì có hạnh phúc vĩnh cửu?". Tôi sẽ trả lời bạn rằng:" Hạnh phúc vốn dĩ không đi đôi với tình yêu, nó bao hàm tình yêu, hay nói cách khác 2 người bên nhau mà chỉ có tình yêu thôi là chưa đủ.

Bạn à, khi 2 người bên nhau tôi tin chắc rằng sẽ có 1 lúc nào đó bạn sẽ không còn tình cảm với đối phương nữa, có thể sau đó bạn sẽ có tình cảm lại hoặc là không, cái tình cảm này được gọi là tình yêu. Không có tình yêu vĩnh cửu vì tình yêu có thể không cân bằng, 1 bên yêu nhiều hơn, nhưng để có được hạnh phúc thì bắt buộc cả 2 phải dùng đến sự chân thành, tình cảm xuất phát từ tấm lòng để xây dựng nên.

Bạn à, khái niệm "hạnh phúc" của mỗi người có thể là khác nhau, không ai giống ai, nhưng để có được hạnh phúc thì phải xuất phát từ sự chân thành. Lòng người có thể thay đổi, nhưng chỉ cần tình cảm xuất phát từ trong lòng thì sẽ không đổi.

Bạn à, thật ra hạnh phúc đến từ những điều giản dị và nhỏ nhặt nhất như bạn có nhà để về, có bạn thân để tâm sự, không phải lo cái đói và đặc biệt có một người thật tâm yêu bạn, hiểu bạn, luôn ở bên bạn dù có chuyện gì, mà cái mỗi người con gái chúng ta muốn là vậy hay sao, chỉ cần một người như vậy là quá đủ rồi.

Bạn à, vì vậy bạn đừng đi kiếm tình yêu vĩnh cửu mà hãy xây dựng HẠNH PHÚC VĨNH HẰNG

Lần đầu mẹ đi máy bay

Máy bay vẫn bay đều đều, bồng bềnh lâng lâng trong những tầng mây. Tay mẹ bất chợt nằm gọn lỏn trong bàn tay của con, nằm thật ngoan trong những vết chai sạn của cuộc đời.
Lần đầu mẹ đi máy bay. Lúc sáu mươi tuổi, tóc bạc màu mây.

Tuần trước con trai nói dắt mẹ đi chơi hơn 700 cây số ở tận miền Trung bằng máy bay. Mẹ vừa mừng vừa sợ. Mẹ sợ. Hồi đó tới giờ mẹ có đi đâu xa,luẩn quẩn trong quê nhà bé tẹo, chèo xuồng đưa đẩy dọc dòng kinh, đội thúng bán buôn lơn tơn ra tới hết Xóm Chòi là xa lơ xa lắc.

Cho đến khi con trai đi làm xa, mẹ mới nhịn tiền bán vịt lên Sài Gòn thăm con. Leo lên chiếc xe đò cũ mèm chạy ầm ầm, thấy cảnh vật chuyển động vù vù, là bụng mẹ bắt đầu lạnh ngắt, tay chân bủn rủn rồi nôn thốc nôn tháo chẳng còn biết trời trăng, cho đến khi chú lơ xe la làng, dì ơi, tới bến hết tiền rồi xuống giùm con! Nghe mấy bà hàng xóm nói đi máy bay còn ác nghiệt hơn nữa. Nó bay ào lên trời rồi nhào độp xuống đất như mình chơi thả diều, làm ruột gan lộn tùng phèo một đống. Nghe mà ớn!

Nhưng mẹ mừng. Cả xóm này có ai được như mẹ. Mỗi lần về quê, con trai của mẹ khệ nệ rinh về từng cái nồi, cái chảo mua ngoài siêu thị mà mẹ thích, rồi dúi cho mẹ vài trăm nghìn. Mẹ nghe xốn xang trong dạ.

Mẹ nghèo. Đến lúc biết chạy chơi thì con phải đi chăn vịt chạy đồng. Lớn lên rồi con đi theo bè bạn đập đá trên Gia Kiệm, Đồng Nai để kiếm tiền đóng học phí và mua đồng phục cho năm học sau, mà không kỳ kèo xin một đồng của mẹ. Mẹ không biết làm gì hơn, lén ra gốc dừa ngồi khóc rưng rức.

Ba tháng sau con về. Đen thui, cao nhồng, ốm nhách. Mẹ sợ điếng cả người, chợt nhận ra con mình lao lung đến dường vậy. Mẹ sợ mất con. Lúc còn nhỏ, con trai của mẹ đứt ngón tay chút xíu mà mẹ tưởng như dao cắt vào lòng. Vậy mà nắng gió đồi Soklu nỡ làm hư hao con mẹ, trái tim của mẹ quặn thắt.

Mẹ khóc rấm rứt một mình trong chòi bếp. Con trai vô tư, ngồi kế bên dúi đầu vào nách mẹ. Mẹ phải giả vờ nói củi dừa chưa khô, hun nhiều khói xanh cay mắt. Con lẳng lặng ra ngoài sau vườn, chặt mớ trâm bầu, phơi áng chừng vài đợt nắng để củi khô cháy đượm không còn làm cay mắt mẹ.

Con trai lớn rồi. Mẹ mừng. Cả xóm này có con cái nhà ai đẹp đẽ như con trai của mẹ. Mũi thẳng băng, cao ngời ngời giống hệt cha nó. Trán rộng, sáng trưng, mà mỗi khi vuốt lên tóc của con, mẹ lại khấn cầu Phật Bà Quan Âm độ trì cho con trai được sáng sủa học thành tài. Không như mẹ chẳng biết mặt chữ con số là gì. Đến cái tên còn phải nhờ người ta viết hộ. Hồi đó đi làm giấy chứng minh nhân dân, chú công an cứ hỏi tên bà là Vĩnh hay Dĩnh. Mẹ ấm ớ nói, cái gì cũng được. Dớ mèn ơi, bà này giỡn mặt chánh quyền hả? Nghe mắc sợ. Dạ, chú mần ơn, tui hổng biết chữ. Để kêu sắp nhỏ về hỏi ông ngoại nó…
Mẹ mừng. Cả xóm này có ai được đi máy bay như mẹ. Ai cũng đầu tắt mặt tối ruộng vườn, heo cúi. Đẻ con ra, nuôi nó đặng người đặng nết thì dựng vợ gả chồng. Rồi đời chúng nó cũng như ông bà, cha mẹ mà thôi. Đẻ con, rồi heo cúi, vịt gà. Con trai của mẹ sớm đã có chí lập thân. Phải tội mẹ nghèo, học xong cấp ba thì con đi lên Sài Gòn kiếm sống.

Người ta kháo rằng muốn làm diễn viên phải đi học đóng kịch ở Sài Gòn. Con khăn gói lên Sài Gòn để đi làm có tiền học làm diễn viên. Kiếm được miếng cơm manh áo làm con cứng cáp, nhưng làm mềm lòng của mẹ.

Con đi làm thuê làm mướn, chật vật ở xứ người. Bẵng qua mấy năm thì ước mơ tàn lụi. Lắm khi con về quê xem phim cùng mẹ, mẹ thấy ánh mắt của con đượm buồn vời vợi nhìn lơ đãng lên màn hình. Mẹ biết, con chỉ có thể là diễn viên của cuộc đời con, và mẹ là khán giả duy nhất ngồi xem cuộc đời ấy mà thôi. Mẹ lén chui vào mùng nằm chùi nước mắt.

Lần này mẹ mừng. Con trai nhín tiền, nói mẹ đi chơi nhe, con mua vé máy bay rồi, mẹ hổng đi bỏ uổng tiền lắm. Mẹ ừ. Mừng chứ sao hổng mừng. Mẹ đi khoe với bà con dòng họ bên nội lẫn bên ngoại. Chưa hết, gặp ai mẹ cũng khoe. Khoe với ông bán dừa, rồi khoe luôn với con nhỏ bán bún mắm ngoài chợ. Gặp ai thì kiếm cớ hỏi này hỏi nọ, vậy chứ chú/thím/con biết Đà Nẵng chưa? Chưa hả? Mèn ơi, chị/bác/dì/thím sắp đi ra ngoài đó nè. Có mần ăn gì đâu, đi du lịch chơi thôi. Con trai nó bao. Đi bằng máy bay…

Hàng xóm tụ tập. Bà con cũng hỏi thăm. Chắc là tò mò, hay là ghen tỵ? Mẹ mặc kệ. Đi máy bay trên trời, chứ phải đi xe đò thì khoe làm gì cho hao nước miếng! Mẹ không dám kể lại với con chuyện người ta thắc mắc, sợ nó mặt mày chù ụ khi biết mẹ khoe. Khoe gì nỗi mà khoe. Máy bay giá rẻ, chẳng dám mua thêm hành lý ký gửi sợ tốn tiền nữa kìa mẹ!

Mẹ khoe con, chứ khoe làm chi chuyến đi du lịch, càng khoe làm gì chiếc máy bay đâu phải sở hữu của mẹ. Mẹ mát lòng khi người ta xúm vào chắt lưỡi hít hà, con trai có hiếu quá trời quá đất!

Vậy là mẹ bắt vịt nấu cháo, mời người ta ở lại. Không dám nói là tiệc tùng, chỉ nói đại khái rằng thôi thì huỡn huỡn ở lại ăn cháo vịt chơi! Cứ như là mẹ sắp từ biệt họ để đi nước ngoài không bằng.

Khách khứa về rồi, mẹ ngồi rửa chén và khóc một mình. Mẹ sợ tốn tiền của con. Nghe bà con tới chơi nói rằng có người phải bán vàng để mua vé máy bay. Mẹ sợ điếng hồn. Vội vàng nín khóc, hỉ mũi, chùi tay vào quần, mẹ vào buồng lục tìm khoen vàng mẹ may giấu trong lớp áo bà ba để phòng khi gia đình có người đau yếu. Mẹ xỏ nó vào ngón tay, lẩm bẩm, thôi kệ, lên Sài Gòn rồi bán cũng được…

Mẹ lấy cớ đường xa, lên Sài Gòn trước một đêm để được ở với con. Con trai nằm kế bên, thình lình quay sang ôm mẹ chặt cứng. Nó cười hăng hắc, nói mẹ nôn lắm sao mà ngủ hông được, lêu lêu, con nít sáu mươi tuổi đây nè! Tổ cha mày…

Mẹ nằm im nghe con ngáy đều đều, rồi lén rờ bàn tay của con. Lâu rồi mẹ chưa đụng vào da thịt của con. Bàn tay chai sần, nóng hổi. Mẹ nghe như máu thịt của mình đang tan chảy dần sang bàn tay của con. Người ta giàu có cho con cái của mình bàn tay hồng hào phúc đức. Mẹ nghèo hèn chỉ đủ mua phong trần chai sạn vào lòng bàn tay của con mà thôi.

Con trai của mẹ nằm nghiêng một bên. Sống mũi cao cao, trán rộng ngang tàng. Mẹ thèm được vuốt lên tóc của nó một chút, rồi hít vào trán của nó, ngửi mùi mồ hôi của nó, nghe mùi nắng Sài Gòn làm săn lại những vết chân chim bên khóe mắt của nó. Mẹ chỉ dám nhìn, không dám chạm vào con, sợ nó trở mình, sợ nó buông mình ra rồi lăn qua bên kia ngủ tiếp.

Mẹ thao thức suốt cả đêm, ước gì ngày nào mình cũng có cớ đi du lịch như thế này để được nằm bên con. Đó là ước mơ xa xỉ, còn hơn cả việc đi máy bay. Sài Gòn rộng lớn biết bao, cuộc đời bất tận. Đêm trường rồi khép lại, bình minh sẽ đưa con đến tận đâu, hả con?

Lúc ra sân bay, mẹ sợ thiệt. Thấy ai ai cũng ăn mặc xinh đẹp, giàu sang, đi ngang bốc mùi thơm phức. Nghe giọng cô nào đó phát loa báo hành khách lên chuyến bay này chuyến bay nọ, lại thấy người ta nói tiếng tây xí xô xí xào. Mẹ sợ quéo cả người. Sợ người ta hỏi mình không biết đường trả lời. Mẹ bám vào tay con.

Cô gái ở quầy kiểm tra vé quát vào mẹ. Dì này, kỳ vậy nè! Giấy chứng minh nhân dân hết hạn từ đời cố lũy nào, lúc con còn chưa sinh ra nữa là, vậy làm sao mà đi được! Quái lạ, đi xe đò có ai kiểm thẻ căn cước của tui đâu cô! Dì này, kỳ vậy nè! Đi máy bay chứ phải xe đò sao dì nói!

Con trai đứng bên năn nỉ, em thông cảm, mẹ anh ở quê ra, anh lại sơ ý mua vé mà quên hỏi mẹ giấy tờ! Thông cảm gì mà thông cảm… Ngó mặt ra chợt thấy anh chàng đẹp trai, nên cô dịu giọng, thôi anh lại đằng phòng vé, đổi vé ngày mai đi, rồi tranh thủ làm một tờ đơn xác nhận bà này là bà này nè, không có đi tù phạm tội gì hết… Trời, đi máy bay phải xét cả tù tội nữa hả con?

Con buồn vì phải tốn thêm tiền đổi ngày đi. Mẹ mừng thầm vì lại ở được với con thêm một đêm, được nhìn cái trán rộng, sống mũi cao của nó cho đến sáng. Nhưng lại sờ sợ, vì thời gian cứ trôi. Đêm trường sẽ hết và ngày mới lại bắt đầu. Mẹ bỏ bàn tay của con ra, lúc con vừa trở mình ban sáng…
Hôm sau mẹ con ra sân bay lần nữa. Mẹ lập cập trình tờ giấy nhăn đùm mà thằng cháu cố công chạy ra công an xã chứng nhận lúc nửa đêm rồi hộc tốc chạy xe máy một lèo lên Sài Gòn để trao tận tay cho bà dì để đi máy bay. Lạ thiệt, lần này cô gái kiểm tra vé chỉ nhìn con trai của mẹ chằm chằm, cười tươi roi rói, nói anh đi vui vẻ nhe. Vậy là xong. Tự nhiên mẹ thấy mừng mừng, thì ra con mẹ trông cũng bảnh bao. Bây giờ mẹ mới nhìn kỹ con. Nó đẹp trai thiệt, ăn mặc lịch thiệp đàng hoàng, nào ai dám nói nó là con của bà già nhà quê như mẹ nữa.

Nhưng mẹ lại chạnh lòng. Quần áo bóng bẩy này phải đổi bằng những vết chai sạn trong lòng bàn tay, mà lẽ ra tất cả những chai sạn đó phải thuộc về phần của mẹ. Như quán tính, mẹ nắm lấy bàn tay con, sợ rằng vết chai sần đó sẽ thuộc về người khác…

Chân mẹ quíu lại khi bước lên cầu thang chiếc máy bay. Sao chiếc máy bay này dài thòng bằng mấy chiếc xe đò vậy ta? Mẹ lóng ngóng đi đằng trước. Con trai lịch sự nhường đường cho một cô gái trẻ đẹp nũng nịu nên đứng lại đằng sau. Một ông tây hỏi mẹ cái gì đó, mẹ ậm ừ, nói bừa, dạ tui đi Đà Nẵng chú ơi! Chú đi đâu mà có mình ên vậy hả? Anh thanh niên đứng kế bên cười sằng sặc, bà bác ơi, ổng hỏi bác ngồi ghế số mấy, phải 9A không? Dạ, vậy ha? Mèn ơi, bác có biết đâu nè con, bộ không phải ngồi ghế nào cũng được hả con?

Mừng quá, con trai đến rồi. Nó cười cười, nói con nhỏ đằng sau dễ thương ác đạn thiệt! Nhìn theo ánh mắt của con, mẹ thấy cô gái đang cong môi đỏ chót với con của mình. Xem ra con cái nhà giàu có, son phấn đủ đầy, nhưng sao ăn mặc lại kém cỏi đến thế, không sợ đi máy bay lạnh run người sao mặc chi cái áo mỏng mảnh thế hở con?

Mẹ nén tiếng thở dài, chẳng trông mong đứa con gái đó để mắt đến con của mình. Quần áo lượt là của con trai cũng chỉ là quần áo che đậy thân thể mà thôi. Tự nhiên mẹ muốn mua hai tờ vé số, giống như bữa hổm ngồi chồm hỗm ở bến xe chờ con trai đến đón, mẹ mua cầu may hai tờ vé số vậy mà. Có tiền rồi mẹ sẽ hỏi cuộc đời bao nhiêu tiền một vết chai sạn trong lòng bàn tay của con. Và mẹ cũng sẽ nắm lấy tay con đi lên Sài Gòn hỏi trường nào dạy con tôi đóng kịch, để được một lần con hát trên vô tuyến cho mẹ xem. Mẹ quay qua con càm ràm, quái lạ, bến máy bay này không bằng một góc bến xe miền Tây, muốn mua vé số ở đây cũng khó nữa con ạ!

… Con trai dắt mẹ vào ghế ngồi cạnh cửa sổ, rồi vòng người qua để thắt dây an toàn cho mẹ. Mẹ bảo, thôi cứ để thí đại nó đi, cột lại không thoải mái cái bụng con à! Con cười ha hả, mẹ ơi, phải thắt dây lại cho an toàn, nếu không sẽ té nhủi về phía trước hay bay bổng lên trên khi máy bay có chuyện bất thường! Ấy chết, đừng có nói chuyện gở như vậy nghe con!

Máy bay chạy ào ào trên đường băng. Mẹ không dám nhìn ra bên ngoài. Tự nhiên mẹ sợ. Nó chạy nhanh hơn xe đò nhiều lắm, đèn bên trong lại bị tắt tối mờ mờ, nhìn sang con chỉ thấy nó đang mỉm cười nhìn mẹ. Ánh mắt của nó trong veo, hệt như năm lên sáu tuổi mẹ dắt nó băng qua bờ cơm nếp ngoài đồng để đến trường và nó ngây ngô hỏi, mình đi qua nhà ngoại chơi hả mẹ? Không phải, mẹ dắt con vào đời từ đây con nhé!

Máy bay bỗng đột ngột cất mình lên. Đôi tai của mẹ lùng bùng như có ai lấy bông cỏ may ngoái vào. Trời đất đảo lộn tùm lum. Sài Gòn nhỏ xíu xanh xanh, ngang hông mẹ là mây lớp lớp. Máy bay rùng rùng đi vào đám mây trắng xóa, Sài Gòn mất tiêu. Tim mẹ đập thình thịch. Mẹ chưa từng lên cao như thế này bao giờ. Nếu lỡ máy bay lên cao hết nổi nữa thì sao? Thì nó sẽ rớt tan tành chứ sao!

Mẹ hoảng sợ. Mẹ niệm kinh cứu khổ cứu nạn, lạy đức Quan Thế Âm từ bi cứu lấy con trai của con, con chí thành đảnh lễ, nguyện cầu cứu giúp con trai của con! Mẹ muốn quay qua con và nói, thôi con ơi, mình về nhà thôi con ơi! Con trai của mẹ không thể nào rớt ịch xuống đất được! Vầng trán đó, sống mũi đó là của con. Con là diễn viên của cuộc đời riêng con. Mẹ không thể nào đánh mất con được! Mẹ giơ tay lên, muốn chạm vào da thịt của con, mẹ không thèm đi máy bay, mẹ cũng không thèm đi du lịch!

Máy bay vẫn bay đều đều, bồng bềnh lâng lâng trong những tầng mây. Tay mẹ bất chợt nằm gọn lỏn trong bàn tay của con, nằm thật ngoan trong những vết chai sạn của cuộc đời.

Hãy để con dắt mẹ đi 700 cây số cuộc đời mẹ nhé! Chỉ 700 cây số trong khoảng một tiếng đồng hồ, như mẹ từng nắm tay con đi hơn vạn dặm, từ hồi lẫm đẫm tập đi cho đến khi giang hồ bụi bặm. Con cầm bàn tay run run của mẹ và bước vào cuộc đời.

… Lần đầu mẹ đi máy bay. Lúc sáu mươi tuổi, tóc mẹ bạc tựa mây bên trời.

Không còn công dân của bất kỳ nước nào trên trái đất này mà cư trú ngay trên chính mảnh đất

Không còn công dân của bất kỳ nước nào trên trái đất này mà cư trú ngay trên chính mảnh đất thuộc chính quyền của đất nước mình lại bị phải làm thẻ tạm trú. Trung Quốc đại lục ngoại lệ. Câu chuyện dưới đây hoàn toàn hư cấu, nếu có tình tiết nào gần giống, đề nghị cười trừ bỏ qua.
Hôm ấy, cái ngày đầu tiên tôi bước chân đến đây, cũng như những ngày trước, hết giờ làm việc là về thẳng nhà trọ, tôi lúi húi nấu tạm cái gì ăn, tắm qua loa, tranh thủ giặt chậu quần áo, ngốn hết một xấp báo dày cộp mang ở cơ quan về, chuẩn bị lên giường thì đã gần 12 giờ. Bỗng có tiếng đập cửa rầm rầm từ tầng dưới vọng lên. Phòng trọ tôi thuê ở trên tầng 4, vì thế chỉ nghe thấy tiếng nhốn nháo chứ không nghe rõ chính xác ai đang nói. Ở cái xóm gần như thiếu an ninh này, tuy bản thân có chút linh cảm khác thường nhưng tôi vẫn không dám xuống xem dưới đó có gì mà ầm ĩ, thôi kệ cứ tắt đèn đi ngủ vậy.
Rồi tiếng gõ cửa lan dần lên tầng 4, lúc này tôi mới nghe thủng người ta đang đi kiểm tra chứng minh thư. Tôi vội vàng với tay, lần cái chứng minh thư trong vali, chứng minh thư mình đầy đủ cả đây, sợ cái quái gì?
Cuối cùng tiếng gõ ấy cũng phát ra bên ngoài cửa phòng tôi. “Mở cửa! Kiểm tra chứng minh thư!” Thấy tôi không có phản ứng gì, thằng cha đập cửa gào lên: “Đừng có giả vờ ngủ, đèn vừa nãy còn sáng, dậy mau!”
Việc gì ta đây phải giả vờ, chẳng phải chỉ có mỗi việc kiểm tra chứng minh thư hay sao? Tôi vừa mở cửa, một tia sáng từ chiếc đèn pin xuyên thẳng vào mắt, tôi né đầu sang một bên mới thấy chiếc đèn pin to đoành rõ mồn một, loại đèn pin cán dài, phải lắp 4 quả pin đại nằm lăm lăm trong tay của một gã mặc đồng phục dân phòng.
“Đưa chứng minh thư đây,” cái giọng gằn lên không một chút thương lượng. Bọn họ có hai người, không vào thẳng trong nhà mà đứng ngoài cửa, chân giẫm lên bậc cửa có vẻ như sợ tôi bất ngờ đóng cửa lại. Tôi rất lịch sự trình cái chứng minh thư, không quên tặng kèm thêm một nụ cười thân thiện. “Ngoại tỉnh à? Thẻ tạm trú đâu?” Đối phương liếc qua chứng minh thư của tôi, miệng chất vấn.
Tôi bỗng sực nhớ ra, mấy hôm trước, khi vừa chân ướt chân ráo đến tìm thuê phòng, mụ chủ nhà đã nhắc nhở tôi phải đi làm thẻ tạm trú, và đe không làm là phiền phức đấy. Tôi hỏi mụ chủ nhà hết bao nhiêu tiền, mụ ấy nói 30 đồng một tháng, nộp liền 3 tháng. Lúc đầu tôi nghĩ, mình vừa xin được việc ở đây, vẫn còn chưa biết có trụ nổi 3 tháng không, chờ xem hết thời gian thử việc, ổn định đã rồi tính.
“Chưa làm thẻ tạm trú? Đi xuống đăng ký!” Nói xong, đối phương đút tọt chứng minh thư của tôi vào túi, đi thẳng. “Chẳng phải là kiểm tra chứng minh thư hay sao? Sao không trả lại cho người ta?” Tôi chạy với theo đòi lại. “Cứ đăng ký tạm trú xong hẵng hay.” Bọn họ lại kéo nhau đi sang gõ cửa các gian bên cạnh.
“Bộp! Bộp!” “Mở cửa! Kiểm tra chứng minh thư!”
Té ra, lôi cái cớ kiểm tra chứng minh thư để ép những người lao động ngoại tỉnh phải đăng ký làm thẻ tạm trú. Biết sớm thế này tôi giả vờ ngủ mặc kệ xác, xem bọn họ có dám phá cửa mà vào không. Rồi lại lăn tăn, có nên lờ kệ bọn họ không? Nếu vậy tôi lại phải quay về quê làm chứng minh thư mới à, đi đi về về tiền xe cũng quá 90 đồng. Vả lại, vừa mới đến làm được mấy ngày, chưa chi đã xin nghỉ, chẳng ra làm sao. Nghĩ đi nghĩ lại, thôi cứ xuống đăng kí vậy.
Hồi đó không có “Luật chứng minh thư” chứ như bây giờ đừng hòng tôi đưa chứng minh thư cho bọn họ cầm. Họ chỉ là mấy ông dân phòng cùng lắm gọi là hỗ trợ công an chứ là cái quái gì, công an đâu mà có quyền đòi kiểm tra chứng minh thư của chúng tôi. Thôi chuyện này nói sau.
Lúc đó tôi sờ túi quần, thôi chết rồi, cái ví biến đâu mất? Trên người còn vài đồng lẻ (sau tôi tìm thấy trong nhà vệ sinh, gác trên bệ nước của bồn cầu, lúc giặt quần áo tôi móc ra vứt lên đấy). Lúc đó, phản ứng đầu tiên của tôi nghĩ là để quên ví ở ngăn kéo cơ quan. Không có tiền thì đăng ký cái gì? Tôi nhét vội tấm danh thiếp sáng phòng hành chính phát cho tôi, tự tin mang theo tâm trạng may mắn, tôi đi xuống dưới nhà. Tôi định bụng sẽ giải thích với bọn họ vài câu như thế này: Tôi có công ăn việc làm, tôi không phải là người xấu, ngày mai tôi sẽ mang tiền đến đăng ký, cam kết không luyên thuyên, mà kiểu gì thì chứng minh thư của tôi cũng nằm trong tay các người cơ mà...
Thất thểu đi xuống, thật ngạc nhiên, ngay chỗ chiếu nghỉ chân cầu thang của toà nhà, một đám dân phòng đứng lố nhố chật đầy lối ra vào, cả đám choai choai, không phải cầm đèn pin mà là cầm khúc gỗ sơn vạch đỏ vạch trắng, đại loại tạm gọi là gậy của công an. Đứng cạnh là một đồng chí công an khu vực đang nhả từng vòng khói thuốc lá. Bây giờ quần áo của dân phòng màu sắc giống y như của công an, không để ý kỹ thì không phân biệt được. Chứ còn hồi đó công an và dân phòng mặc quần áo giống nhau hoàn toàn từ màu sắc đến kiểu cách. Hay là tại cái đêm hôm đó tối mò, trắng đen không rõ nhìn tưởng giống nhau?
Cả một vòng ước chừng 10 người đứng đầy dưới chân cầu thang chắc toàn là những kẻ thuê trọ đều chưa làm đăng ký tạm trú. Trai có, gái có, già có, trẻ có, có chị còn ẵm cả đứa nhỏ theo, thằng bé sợ khóc ré lên, có lẽ nó đang ngủ dở mắt thì bị tiếng ồn đánh thức.
“Khóc cái gì! Nheo nhéo điếc cả tai, bà có biết dỗ con không đấy?” Một tay dân phòng chắc không chịu nổi. Bà chị bị nhắc cũng không vừa độp lại: “Ai động gì đến tôi đấy, các ông xem lại mình đi xem có ra gì không, đêm hôm khuya thế này còn làm phiền dân.” “Cho bà nói lại câu nữa đấy!” Tay dân phòng sửng cồ khùng lên, vung gậy hung hăng định giáng cho chị kia một gậy. Tiếng e hèm khục khục của đồng chí công an khu vực chặn đứng hành động của tay dân phòng.
“Không được đánh dân!” “Trẻ con nó khóc thì biết làm sao được.” “Sao nửa đêm lại đi kiểm tra thế này?” Thấy có đồng chí công an đứng đấy, mọi người nhao nhao tỏ ra bất bình. “Chuyện! Công an khu vực mà, giữ an ninh cho dân mà, vì dân phục vụ mà.” “To mồm cái gì? Ngậm hết mồm lại cho tôi!” Đồng chí công an vừa mở mồm quát ầm lên thì bị ho rút họng, không biết có phải là bị sặc khói thuốc lá?
Tôi đứng nghệt mặt giữa đám đông, thở mạnh cũng không dám. Ai dám nổi máu anh hùng khi trong người không có nổi vài đồng bạc, mạnh vì gạo, bạo vì tiền, không tiền đừng hòng có quyền mở mồm.
Đám người nhốn nháo ra ra vào vào trong cái vòng người đang bu kín chân cầu thang, chắc toàn người chưa đăng ký tạm trú như tôi. Bình thường ánh đèn sáng trưng dưới chân cầu thang này thật đáng yêu, giờ sao như xiên vào mắt. Lúc đó chỉ mong sao cả xóm trong cái thành phố này bỗng dưng mất điện diện rộng thì tốt biết mấy, như thế cái đám này sẽ nhất loạt nhao nhao đòi giải tán, vì chờ mất điện mà tự động lủi dần. Nhưng đêm nay, trạm điện chắc có người trực, không dễ dàng phá vỡ việc cấp điện sinh hoạt cho dân kiểu đấy được, cũng như hiện nay việc bỏ đi hay trốn chạy đều là điều không thể.
Cuối cùng thì hai gã dân phòng chuyên trách việc gõ cửa kiểm tra thẻ ở mấy tầng trên đã xuống, ước chừng những người buộc phải xuống cũng xuống hết rồi, những người không xuống tức là đã đăng ký. Chỉ chờ có thế, một tay dân phòng đang đứng đó đưa còi huýt lên: “Xếp hàng! Xếp cho tử tế, lần lượt, đi theo tôi!” Đám người đang đứng vây thành vòng tròn liền giãn dần ra, chuyển dồn thành một hàng thẳng, chiếc đèn pin trong tay bọn họ đồng loạt loé lên, quét rọi xuống đường. Chúng tôi, từng người từng người, bị đội dân phòng áp giải di chuyển về trạm dân phòng xóm. Sau này mới biết đó là điểm khai báo tạm trú. Thoạt đầu chúng tôi tưởng bị dẫn đến trạm tạm giam, sợ đến nỗi như gõ dùi vào tim.
Diễu ngang qua phố chính, rẽ vào trong một cái ngõ nhỏ, lắt léo dăm bảy ngóc ngách, đường sao thấy dài thế. Hai bên lối ngõ nhỏ vẫn còn mấy quán chưa đóng cửa, vài thực khách ăn đêm tò mò chụm đầu, xì xào với bọn chủ quán, mắt nhìn theo đoàn chúng tôi đi qua. Dưới ánh đèn khuya lờ nhờ, bỗng nhiên tôi cảm thấy mình đang đi trong đội kiểm soát quân sự. Thường ngày chúng tôi vẫn qua đây, có ai thèm để ý đến đâu? Ai mượn các người nửa đêm đứng đây tiễn ta, ngày mai nhất định ta sẽ xây cái lò than cạnh quán nhà các người.
Sau mới biết, trạm dân phòng của xóm rất gần, họ bắt chúng tôi đi một vòng thực chất là để bêu riếu chúng tôi, mục đích cảnh báo với mọi người là nhớ phải đăng ký tạm trú, nếu không là sẽ cho đi diễu phố. May còn chưa bị treo cái mảnh sắt ghi tên tuổi trước ngực, mà cũng không phải bị đội cái mũ giấy trên đó viết chữ “Trốn đăng ký tạm trú tạm vắng, ắt là kẻ hạ lưu”. Cũng may giờ là thập niên 90 đang là thời cải cách mở cửa từ thành thị đến miền duyên hải chứ không phải là thời kỳ cách mạng văn hoá, với lại mục đích của bọn họ chỉ là đăng ký để thu tiền, vừa có tiếng là phục vụ nhân dân, vừa làm kinh tế mà thôi.
Cuối cùng thì cũng đến trạm dân phòng, nó nằm trong đình của xóm. Cái đình này tôi lạ gì, tôi đi qua mấy lần rồi, nhưng biết đâu nó nằm sâu trong phố thế này, lại còn có cả một trạm làm việc của một cơ quan công an ở trong đây.
Trạm dân phòng thắp đèn sáng trưng, bên trong kê vài cái bàn làm việc, trên mặt bàn cắm lá quốc kỳ be bé để lấy lòng tin đây là một đơn vị của cơ quan nước. Trên bàn còn có cả điện thoại, mấy thứ như cốc nước, giá để tài liệu. Có ba bốn người trực, mặt sắt chí công vô tư, nghiêm nghị chỉ huy mọi người xếp hàng chờ làm thủ tục. Nhìn bốn xung quanh, cái đám dân phòng ban nãy biến đâu mất, tôi đồ rằng chắc họ hết ca về nhà rồi.
Một tay nhân viên mặc trên người bộ đồng phục soi xét kỹ lưỡng tập chứng minh thư của chúng tôi, rồi viết phiếu thu, thu tiền là một người khác. Tay thu tiền dặn dò đám người đang đứng chờ nộp tiền: “Mai nhớ mang ảnh đến nộp, một tuần sau là được lĩnh thẻ. Không nộp ảnh, chậm nhận thẻ là việc của các người, nghe chưa!”
Mấy người nộp tiền rồi thì đi ra, đến lượt một ông lão, lão lắp bắp: “Tôi, tôi không đủ tiền.” “Không có tiền? Không tiền thì xếp cái gì hàng, hả? Đứng sang một bên!” Tay nhân viên tỏ thái độ gằn giọng khùng lên. “Không mang tiền, đứng ra đằng kia!” Gã chỉ tay về phía bức tường có dán mấy tờ báo.
Sau trận nạt nộ, 7, 8 người đang trong hàng đều tự động đứng sang một bên, trên bức tường dán đủ các loại thông báo, toàn các thể loại mang đầy tính khuyến cáo răn đe vô cùng nghiêm túc như những điều cần biết về thủ tục đăng ký, biện pháp quản lý nhân dân, quy tắc phục vụ, giám sát điện thoại... làm mấy người đứng cạnh đó tự mình cảm thấy nhục nhã.
Đồng hồ trên tường chỉ hai giờ. Người cuối cùng có tiền nộp đã đi ra, còn lại mấy người tiền không có thì biết làm sao?
“Gọi điện cho người nhà, bạn bè mang tiền đến!” Gã nhân viên cong lưng ưỡn cái ngực khệnh khạng chĩa về phía chúng tôi. “Ở đây tôi làm gì có người thân!” “Bạn bè tôi làm gì có điện thoại.” “Đêm muộn thế này vay được tiền của ai bây giờ.” Quan sát thấy mấy nhân viên này có vẻ không đánh người, chúng tôi cũng mồm năm miệng mười nhao nhao lên.
Chính xác, cái thời đó có rất ít nhà có điện thoại cố định chứ đừng nói chi đến điện thoại di động, nhưng máy nhắn tin thì khá nhiều, chính là máy BP hay còn gọi là máy call, một vài trăm là mua được cái hiển thị cả số chữ, tiện lợi thiết thực.
“Tôi có thể dùng nhờ điện thoại nhắn tin được không?” Một người không mang tiền lập bập hỏi, tay nhân viên ở trạm dân phòng không thèm trả lời một tiếng. Anh ta liền đi thẳng đến bàn làm việc, nhấc ống nghe lên, lách tách bấm vào mấy phím số: “Đề nghị gọi 4848448, tôi họ Chu, Trân Chu ấy, tên là Tông, Cao Tông ấy, đang có việc rất gấp, nhắn anh ấy gọi lại máy này ngay!” Anh ta vừa đặt ống nghe xuống, lập tức một người khác liền bước qua, nhấc ống nghe lên lại lách tách bấm mấy phím số: “Anh nhắn hộ tôi máy nhắn tin số 3721250...” Có liền mấy người gọi máy nhắn tin. Tôi không nhúc nhích ở nơi xa lạ thế này tôi làm gì có bạn.
Không lâu sau thì điện thoại đổ chuông, mấy người tranh nhau ra nhấc ống nghe thì bị gã nhân viên lừ mắt chặn lại. Tự tay gã nhấc ống nghe: “Trạm dân phòng nghe, xin hỏi có chuyện gì xảy ra? Hả, tìm ông Chu á?” Gã giơ cái ống nghe lên cao huơ huơ: “Chu!” Chu vội vàng chạy đến nghe, chúng tôi cười vụng “ Trư!” rồi sắp đến lượt “Trâu”!
Chu líu lo nói điện thoại bằng giọng quê, có lẽ đầu kia nghe là người cùng quê. Tôi nghe không rõ lắm nhưng cũng loáng thoáng hiểu được nghĩa: nhanh nhanh mang tiền đến giúp. “Thôi đừng có tào lao nữa, nói nhanh lên, người khác còn chờ điện thoại gọi đến, ông cứ luyên thuyên điện thoại người khác sao gọi đến được?” Tay nhân viên gõ cộc cộc lên mặt bàn nhắc nhở.
Chu cuống quýt đặt ống nghe xuống, thở sượt một hơi rồi về vị trí cũ đứng, vẫn là chỗ cạnh bức tường treo bảng thông báo. Nghe chừng bạn cùng quê sắp mang tiền đến cho anh ta. Đến lượt “Trâu” khác, mặt  mũi anh ta mếu máo sau khi đặt ống nghe xuống, chắc ông bạn không có tiền.
“Anh, anh ý, lại đây!” Gã nhân viên như vừa phát hiện ra điều gì, gã cầm chứng minh thư của tôi, chỉ vào tôi gọi. Giật thót cả người, tôi lập cập chạy tới. “Anh thì sao, tiền không nộp, nhắn tin cũng không, thế bị điếc hay câm?” Gã hỏi tôi.
Tôi chẳng bị điếc cũng chẳng bị câm, thế mà bị gã này hỏi thế, máu điên của tôi nổi lên. Tôi rút danh thiếp ra, đẩy về phía anh ta cao giọng: “Tôi vừa đến đây kiếm việc, anh nhìn danh thiếp của tôi thì biết, vẫn còn mới tinh!” Gã xéo mắt nhìn tấm danh thiếp, lưng bật thẳng lên, thái độ có vẻ nhã hơn chút rồi, chắc đọc rõ tên cơ quan in trên đó: một toà soạn nào đó. Gã vếch cái mũi lên hít hít như ngửi thấy mùi thơm của mực in ở tấm danh thiếp, nói: “Anh là nhà báo, kiến thức rộng, anh đến từ tỉnh khác, chắc cũng biết thẻ tạm trú vẫn bắt buộc phải làm, vẫn là do nhà nước quy định chứ không phải chúng tôi gây khó với anh!”
“Tôi biết, tôi biết!” Thấy thái độ anh ta dịu xuống, tôi cũng theo thang mà tụt xuống diễn: “Đêm hôm thế này, các anh làm việc vất vả quá! Nhưng quả thực tôi không có bạn gần đây, càng không thể gọi điện cho ông Tổng biên tập. Tôi để quên ví ở toà soạn, ngày mai tôi đến nộp tiền, mà đằng nào thì chứng minh thư cũng nằm trong tay các anh. Tôi chắc không vì 90 đồng mà không lấy chứng minh thư đâu.”
“180 đồng chứ!” Gã nhắc nhở. “Nếu như ngày mai tôi không mang tiền đến nộp, anh lại điện đến toà soạn, đập vỡ bát cơm của tôi thì chết!” Tôi hứa sống hứa chết với gã nhưng rõ ràng là 90 sao bây giờ lại thành 180? Tôi được một người khác giải thích như sau: “Ai chủ động đi làm thẻ tạm trú thì một lần đóng 3 tháng liền là 90 đồng. Vì anh không chủ động đăng ký, bị phát hiện thì phạt đóng bổ sung 3 tháng trước đó là 90 đồng, sau đó đóng luôn 3 tháng hiện tại, không cần biết anh có tạm trú ở đây đủ 3 tháng hay không, tổng cộng 180 đồng. Nhà nước quy định, đăng ký tạm trú có thể đăng ký 1 tháng một lần, nhưng trên có chính sách, dưới có đối sách, anh nhập gia thì phải tuỳ tục.”
“Anh Lưu, anh xem trường hợp này thế nào!” Gã nhân viên đứng dậy, quay về phía sếp mình, một lão to béo, nghẹo cổ ngồi ghế tựa giám đốc, báo cáo.
“Thằng nhóc này đeo kính, trông thật thà, đần ngố, trông thư sinh, lại còn là nhà báo, đồng ý cho mai đến nộp tiền, cho nó biến đi!”
 Tôi đồ rằng tay này là Lưu đội trưởng đội dân phòng, cầm chứng minh thư và danh thiếp của tôi từ tay cấp dưới. Lão mở to mắt nhìn tôi bằng ánh mắt dò xét, nghiêm nghị hỏi: “Anh từ đâu đến? Đọc địa chỉ gia đình, số chứng minh thư, địa chỉ cơ quan, số điện thoại, họ tên lãnh đạo!”
Chuyện nhỏ! Tôi dỏng thẳng người lên, tuôn một tràng không ngắt. Xong chuyện mới biết, có cả chứng minh thư giả, giả cả địa chỉ gia đình, không nhớ được số chứng minh thư, “kẻ ba không” một lúc không thể bịa được địa chỉ, số điện thoại và cả tên của sếp ở cơ quan. Xem ra công tác cưỡng chế đăng ký tạm trú lại có tác dụng phát hiện và quản lý việc làm giả chứng minh thư của “kẻ ba không”, nếu không nhà nước chẳng phải ban hành chính sách quy định này làm gì, cho dù đối tượng phải chấp hành cho rằng nó đầy tính kỳ thị, bất hợp lý thậm chí còn đi ngược với tinh thần của hiến pháp.
Thấy tôi trả lời rành mạch, đáp án cũng rất chính xác, Lưu đội trưởng kéo ngăn kéo, ném chứng minh thư và danh thiếp của tôi vào trong, lùi cái bụng phè mỡ lại rồi đẩy ngăn kéo đóng, tiếp tục lim dim ngủ, không thèm đôi co phí lời với tôi nữa.
“Anh có thể về được rồi, nhớ ngày mai mang tiền đến đăng ký!” Gã nhân viên dựng cái cổ áo, phẩy tay về phía tôi. Bà con ơi, tôi cuối cùng cũng đã được giải phóng rồi! Tôi đã được thoát khỏi trạm dân phòng trước nhiều cặp mắt nhìn đầy hâm mộ thậm chí cả ghen tị của những người vẫn còn đang chờ đợi những anh chị em nghèo khó cùng thân phận đến tiếp viện.
Bước chân trên đoạn đường lát đá xanh của cái ngõ nhỏ trong thành phố này, nghĩ lại mọi thứ vừa xảy ra với mình, tôi bỗng thấy rùng mình. Bên trong cái ngõ nhỏ hẹp bất chợt một nhóm huýt sáo chào mời tôi, hỏi tôi có làm chút “thư giãn” không, nửa đêm giá khuyến mãi nhé, thoải mái vui vẻ “tàu suốt, tặng thêm 5 phút, không để phải chê trách là được”. Nom mặt mũi mụ nào cũng như bà chủ bán hàng xén, tôi không dám tơ tưởng, chỉ mong sao nhanh nhanh về được đến nhà trọ.
Đi đến ngã ba đường, ánh trăng lắt léo lọt qua giữa kẽ hở của dãy nhà liền kề chen chúc san sát khiến tôi dừng bước, ngẩng đầu ngắm vầng trăng vành vạnh, cảm xúc chợt ùa về: “Trăng tròn vằng vặc chiếu muôn nơi, trăm kẻ hân hoan vạn kẻ sầu. Sóng sánh ánh vàng như làn nước. Mát lành rửa sạch bụi trần gian.”